Tình hình tài khóa tồi tệ của Mỹ

Diệu Linh
Junior Editor
Moody's và các cơ quan xếp hạng tín dụng khác đã hạ bậc xếp hạng tín dụng của Mỹ do gánh nặng tài chính ngày càng lớn. Bên cạnh đó, tình hình tài chính này có thể dẫn đến những biến động lớn trên thị trường trái phiếu, và tác động đến các lĩnh vực khác như bất động sản và chứng khoán.

Tại sao tình hình tài khóa của Mỹ lại gây ra nhiều ái ngại đến thế?
Nợ quốc gia đã tăng từ dưới 6 nghìn tỷ USD năm 2000 lên hơn 37 nghìn tỷ USD hiện nay. Nợ của chúng ta hiện lớn hơn doanh thu hàng năm 720%. Thâm hụt ngân sách hàng năm của quốc gia trong năm tài khóa 2025 được dự báo là 1.9 nghìn tỷ USD, tương đương 6.2% GDP. Chính phủ Mỹ hiện chi cho khoản thanh toán lãi cho Nợ quốc gia (1.11 nghìn tỷ USD) nhiều hơn chi cho Quốc phòng (1.10 nghìn tỷ USD). Viện CATO dự báo chính phủ Mỹ sẽ trả 2 nghìn tỷ USD tiền lãi cho toàn bộ khoản nợ này trong 10 năm tới.
Thâm hụt thương mại của Mỹ cũng đạt kỷ lục mới, tăng lên 1.1 nghìn tỷ USD trong 12 tháng qua; gấp 10 lần so với năm 2000.
Đến năm 2035, theo CBO, thâm hụt tài khóa hàng năm sẽ tăng lên 2.7 nghìn tỷ USD, và nợ quốc gia sẽ đạt hơn 58 nghìn tỷ USD, gần bằng 130% GDP. Nhưng đây là dựa trên giả định rằng Đạo luật Cắt giảm Thuế và Việc làm (TCJA) sẽ hết hiệu lực theo đúng lịch trình và chúng ta sẽ có thêm 4 nghìn tỷ USD doanh thu. Tuy nhiên, cả hai đảng đều có vẻ không muốn cắt giảm chi tiêu. Và do đó, một kế hoạch tăng nợ và thâm hụt, cùng với việc nâng trần nợ thêm 4 nghìn tỷ USD, đang được tiến hành ở Washington.
Tuy nhiên, ngoài khoản nợ bổ sung 4 nghìn tỷ USD từ việc tiếp tục Đạo luật TCJA, bạn phải cộng thêm kế hoạch của Tổng thống nhằm loại bỏ thuế đối với tiền tip, làm thêm giờ và An sinh xã hội, cũng như cho phép khấu trừ 10,000 USD lãi vay mua ô tô, điều này sẽ làm tăng thêm 2.5 nghìn tỷ USD vào đống nợ. Tất nhiên, hy vọng rằng một phần sự gia tăng nợ này sẽ được bù đắp bởi doanh thu bổ sung mà chúng ta có thể thu được từ tăng trưởng kinh tế do cắt giảm thuế tạo ra. Nhưng sự tăng trưởng đó có thể bị bù đắp bởi lãi suất tăng vọt từ tất cả khoản nợ mới này đang chồng chất lên một tình hình tài khóa vốn đã không bền vững.
Khi cộng tất cả lại, thay vì thêm 22 nghìn tỷ USD nợ mới được CBO dự báo trong 10 năm tới, Mỹ sẽ thêm gần 28 nghìn tỷ USD. Nhưng một lần nữa, đó là nếu lãi suất ổn định và tăng trưởng kinh tế vẫn mạnh mẽ trong suốt thập kỷ. Con số 28 nghìn tỷ USD tất nhiên sẽ tệ hơn nhiều nếu chúng ta trải qua suy thoái trong thập kỷ tới, điều gần như chắc chắn sẽ xảy ra vì Mỹ trung bình cứ 6.5 năm lại có một đợt suy thoái kể từ Thế chiến thứ hai. Do đó, ước tính thực tế hơn là Mỹ sẽ thêm khoảng 30 nghìn tỷ USD nợ mới trong thập kỷ tới, nâng tổng số lên khoảng 67 nghìn tỷ USD. Để tham khảo, phải mất 250 năm lịch sử Mỹ để tích lũy khoản nợ hiện tại là 37 nghìn tỷ USD.
Tình hình này rõ ràng là rất tồi tệ đến nỗi ngay cả Moody's cũng bắt đầu chú ý. Cơ quan xếp hạng tín dụng này đã hạ bậc xếp hạng tín dụng quốc gia của Hoa Kỳ một bậc, với lý do gánh nặng ngày càng tăng trong việc tài trợ thâm hụt ngân sách liên bang, vốn đã vượt quá 1 nghìn tỷ USD khi năm tài khóa còn 5 tháng nữa. Thâm hụt cho đến nay đã tăng 13% so với năm tài khóa trước. Moody's cũng nhấn mạnh chi phí gia tăng của việc tái cấp nợ hiện có trong bối cảnh lãi suất cao và đang tăng, nói rằng, 'Kết quả là, chúng tôi kỳ vọng thâm hụt liên bang sẽ gia tăng, đạt gần 9% GDP vào năm 2035, tăng từ 6.4% năm 2024.' Việc Moody's hạ bậc xếp hạng cuối cùng đã đồng nhất cơ quan này với các lần hạ bậc xếp hạng của cả Standard and Poor's và Fitch.
Hiện có 11 quốc gia có xếp hạng tín dụng cao hơn Mỹ. Đó là Úc, Canada, Đan Mạch, Đức, Liechtenstein, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Singapore, Thụy Điển và Thụy Sĩ.
Mỹ đang hướng tới cái mà giờ đây được biết đến là khoảnh khắc Liz Truss. Liz Truss trở thành Thủ tướng Vương quốc Anh vào ngày 6 tháng 9 năm 2022, sau khi được chọn trong cuộc bầu cử lãnh đạo Đảng Bảo thủ. Bà từ chức vào ngày 20 tháng 10 năm 2022, chỉ 49 ngày sau đó. Sự sụp đổ của bà Truss xảy ra khi bà cố gắng thúc đẩy một gói cắt giảm thuế lớn mà không có sự bù đắp bằng việc giảm chi tiêu. Các nhà đầu tư đã phản ứng dữ dội, bán tháo trái phiếu dài hạn của Anh và khiến lợi suất tăng vọt hơn 150 điểm cơ bản chỉ trong vài ngày. Mỹ nên sớm chịu chung số phận.
Suy cho cùng, lợi suất sẽ phải tăng cao đến mức nào trước khi thị trường Kho bạc thu hút đủ người mua để tài trợ cho lượng phát hành mới ồ ạt? Cục Dự trữ Liên bang (Fed) vẫn đang trong giai đoạn thắt chặt định lượng (QT) ở mức độ thấp và chắc chắn hiện không tham gia vào việc mở rộng quy mô bảng cân đối kế toán. Ngoài ra, người nước ngoài không còn sẵn sàng gửi thặng dư thương mại và tiền tiết kiệm của họ vào nợ của Mỹ do các lệnh trừng phạt, tịch thu tài sản, chiến tranh thuế quan, lạm phát dai dẳng và lo ngại về khả năng thanh toán. Và hiện nay, khi bong bóng trái phiếu đang vỡ trên toàn cầu, họ cũng có lựa chọn mua và nắm giữ nợ của chính mình vì lãi suất trong nước của họ đang tăng. Ví dụ, Nhật Bản, chủ nợ nước ngoài lớn nhất của Mỹ, đã chứng kiến lãi suất vay chuẩn của mình tăng vọt trên 1.5% sau khi ở mức âm trên danh nghĩa từ năm 2016 đến năm 2021.
Cuối cùng, Mỹ đơn giản là không có đủ tiền tiết kiệm để đáp ứng cơn sóng cung. Thật không may, máy in tiền của quốc gia sẽ buộc phải thay thế thị trường tự do.
Kết quả sẽ là biến động lãi suất cực lớn và giá trái phiếu sẽ phản ứng mạnh mẽ. Ít nhất là cho đến khi Fed đồng ý với một chương trình mua trái phiếu mạnh mẽ. Nhưng điều đó sẽ chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề lạm phát hiện tại, vốn đã làm suy yếu ba nhóm người tiêu dùng thấp nhất.
Sự hỗn loạn trên thị trường trái phiếu sẽ không tốt cho bong bóng bất động sản và chứng khoán. Liệu người quản lý danh mục đầu tư "mua rồi để đấy" điển hình của bạn có nắm giữ 60% danh mục trong trái phiếu dài hạn và 40% trong cổ phiếu rủi ro không? Thay vào đó, các nhà đầu tư chỉ nên nắm giữ phần ngắn hạn của đường cong lợi suất lúc này trong khi chủ động giao dịch phần cổ phiếu dựa trên đạo hàm cấp hai của lạm phát và tăng trưởng. Duy trì sự linh hoạt tối đa đã trở thành lựa chọn tốt nhất để thành công.
fxstreet